Sáng kiến kinh nghiệm Dạy tiết luyện tập hình học theo hướng tích cực

doc 12 trang Sơn Thuận 06/02/2025 541
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy tiết luyện tập hình học theo hướng tích cực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_tiet_luyen_tap_hinh_hoc_theo_huong.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy tiết luyện tập hình học theo hướng tích cực

  1. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ GIẢI PHÁP Mã số: Tên sáng kiến: Dạy tiết luyện tập hình học theo hướng tích cực. 1. Tình trạng giải pháp đã biết Khi điều tra về độ thích học tiết luyện tập hình học đối với 100 HS thì được kết quả như sau: Thích: 13.7 %. Bình thường: 35.2 %. Không thích: 51.1 %. Vì các nguyên nhân chủ yếu sau: 1.1. Về phía GV - Do cách dạy của GV chưa kích thích được sự ham muốn học hình học, coi nhẹ một số kĩ năng cũng như một số kiến thức mà GV tưởng chừng như các em đã biết; - Coi nhẹ việc sử dụng đồ dùng dạy học hay dạy chay hoặc sử dụng chưa nhuần nhuyễn, chưa hợp lí, chưa đúng lúc gây phản tác dụng. Chưa mạnh dạn áp dụng công nghệ thông tin trong các tiết dạy; - Chưa tập trung vào việc lựa chọn kiến thức trọng tâm và phù hợp với tiết luyện tập. Thường chỉ chú ý đến số lượng bài tập chứ không chú ý đến chất lượng tiết luyện tập, chưa hình thành cho HS phương pháp giải, kĩ năng vẽ hình, phân tích tìm lời giải, trình bày lời giải hay các kinh nghiệm gì khác cho việc làm toán mà GV thường nhắc lại một số kiến thức cũ rồi cho làm bài tập, chủ yếu viết lời giải để cho HS chép; - Chưa nghiên cứu sau mỗi bài tập đã sửa cho HS thì ta còn có thể khai thác thêm được những gì, rút ra được những chú ý gì hay những nhận xét gì để giúp ích cho HS trong quá trình làm bài tập sau này mà trong tiết lí thuyết không thể có phần này; - Thiếu sự liên hệ thực tế cho HS; - Chưa đổi mới kiểm tra đánh giá. 1
  2. - Có thêm nhiều phương pháp dạy học tích cực để lôi cuốn các em vào từng tiết học từ đó yêu thích học toán hình học hơn; - Hình thành một số kĩ năng cần thiết cho HS từ việc vận dụng lí thuyết để giải bài tập và bước đầu hình thành kĩ năng vận dụng kiến thức toán vào trong đời sống và các môn học khác; - Rèn luyện cho HS nền nếp làm việc có tính khoa học, học tập tích cực chủ động, sáng tạo và các thao tác tư duy cần thiết. 2.3. Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp 2.3.1. Cần hiểu “luyện tập hình học” là làm gì? “Luyện tập” đã chỉ cho ta rằng “người dạy phải luyện cái gì và người học phải được tập cái gì”. Hình học là môn học có tính trừu tượng cao, kiến thức rộng có liên hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, luyện tập hình học không chỉ rèn kĩ năng vẽ hình, sử dụng thước và các dụng cụ vẽ hình khác, kĩ năng trình bày lời giải mà còn rèn cho HS kĩ năng tư duy, vận dụng kiến thức vào thực tế. Việc học tốt môn hình học sẽ hình thành ở HS tính cẩn thận, phán đoán chình xác, suy luận logic. 2.3.2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 2.3.2.1 Đối với GV a) Về việc khắc phục tình trạng HS không có đủ dụng cụ học tập: Cần hình thành cho HS thói quen mang đủ dụng cụ cần thiết cho môn hình học trong mỗi tiết học môn này. Ngay từ đầu năm, GV nên kiểm tra trực tiếp đồ dùng học tập của từng em, sau đó giao nhiệm vụ này lại cho cán sự bộ môn và báo cáo GV, thỉnh thoảng cần kiểm tra đột xuất để kịp thời nhắc nhở và có biện pháp xử lí nghiêm các HS thường xuyên không có đủ dụng cụ học tập. b) Về kiến thức trong tiết luyện tập: Cần phải xác định được các nội dung cần có trong tiết luyện tập. Bao gồm: + Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra những kiến thức trọng tâm có liên quan đến tiết luyện tập. 3
  3. lựa chọn sao cho phù hợp với các đối tượng HS của mình nhưng phải đạt được các yêu cầu tối thiểu về mặt kiến thức kĩ năng theo qui định của chuẩn kiến thức kĩ năng. Bài tập được chọn có nội dung kiến thức mang tính tổng hợp giúp khắc sâu kiến thức trọng tâm của chủ đề được chọn để luyện tập, nâng cao hay mở rộng thêm kiến thức đã học. Do hình học bắt nguồn từ thực tế nên GV cần chọn một bài toán có liên quan đến thực tế cuộc sống (nếu có thể) để HS suy luận được dễ dàng, ta cũng có thể đưa ra bài tập là sự tranh luận của hai bạn để cho HS suy nghĩ trong cuộc tranh luận ấy ai là người đúng, ai là người sai và vì sao. Đó cũng là một biện pháp giúp GV dễ dàng lôi cuốn HS vào tiết học và từ đó HS yêu thích môn học này hơn. Ví dụ: Luyện tập sau bài “Góc nội tiếp” (hình học 9), ta có thể đưa ra tình huống thực tế cho HS: Tính số đo các góc ở đỉnh của các cánh sao trong ngôi sao năm cánh của lá cờ Tổ quốc. Với tình huống này đã thu hút được sự tò mò bởi vì các em vẫn thường thấy ngôi sao trên Quốc kì nhưng có mấy em biết số đo của góc ở đỉnh bằng bao nhiêu và từ đó HS tìm tòi cách tính bằng cách xem các góc ở đỉnh là các góc nội tiếp bằng nhau của đường tròn. Qua đó, góp phần hình thành ý thức vận dụng kiến thức toán để giải quyết các tình huống thực tiễn. c) Về phương pháp + Cần chuẩn bị cho tiết luyện tập sau mỗi tiết lí thuyết. Ví dụ: Khi dạy xong bài “Góc có đỉnh ở bên trong đường tròn. Góc có đỉnh ở bên ngoài đường tròn” (hình học 9), GV đưa ra hình vẽ để hệ thống lại mối quan hệ giữa các góc đã học khi các góc ấy chắn cùng một cung hoặc trong hai cung bị chắn có một cung giống cung bị chắn của góc khác nhằm giúp HS có sự chuẩn bị trước về lí thuyết để đến tiết luyện tập được nhẹ nhàng hơn. + Chuẩn bị nhiều phương án, nhiều hình thức luyện tập để tiết dạy trở nên sinh động, không gây căng thẳng cho cả GV và HS. Nên đa dạng hình thức tổ chức giữa các tiết, để tránh sự rập khuôn gây nhàm chán sẽ không thu hút các đối tượng HS tham gia, dẫn đến không phát huy tính sáng tạo của HS . 5
  4. tìm tòi của HS. Khi gọi HS trả lời vấn đề đặt ra, cần gọi ngẫu nhiên để kích thích tất cả các đối tượng trong nhóm phải nổ lực tìm hiểu và tự hào vì đã góp phần mang vinh quang về cho nhóm; + Đa dạng các hình thức trò chơi vì các em có thể vừa chơi vừa học tạo hứng thú trong học tập từ đó phát huy tính tích cực của các em. Thực hiện đan xen các trò chơi: Ô chữ bí mật, tiếp sức, ai nhanh hơn, hái hoa dân chủ; Khi GV đánh giá kết quả thảo luận nhóm hay kết quả một trò chơi phải đảm bảo tính công bằng, khách quan để khích lệ các em trong học tập. Phần thưởng dành cho nhóm là giấy kiểm tra hoặc các dụng cụ học tập môn toán như: Compa, ê-ke, thước thẳng, viết chì, viết màu, cục tẩy, + Khi giải một bài toán, GV cần đi theo các bước sau: Bước 1: Gọi HS đọc đề, tìm hiểu kĩ đề toán, vẽ hình chính xác và điền các kí hiệu cần thiết vào hình vẽ, dùng kí hiệu thể hiện ngắn gọn dễ hiểu nội dung bài toán. Hình vẽ phải mang tính khái quát tránh tình trạng ngộ nhận và vẽ hình cho các trường hợp có thể xảy ra. Không nên vẽ hình cho toàn bài mà vẽ hình tương ứng với yêu cầu cần giải. Ví dụ: Đối với bài toán: “Cho đường tròn (O) đường kính AB, trên đường (O) lấy hai điểm phân biệt C, D khác A và B. Đường thẳng AC cắt đường thẳng BD tại I, đường thẳng AD cắt đường thẳng BC tại H. CMR: HI  AB.” GV yêu cầu HS vẽ hình trong hai trường hợp: 1) Hai điểm C và D cùng thuộc một cung I D C H A O B 2) Hai điểm C và D nằm trên hai cung khác nhau 7
  5. sai sót, uốn nắn kịp thời giúp HS khắc sâu kiến thức, phát hiện ra sai lầm mới góp phần bổ sung thêm kinh nghiệm giải toán cho HS. Ví dụ : Bài tập 20 – trang 76 SGK toán 9 tập 2. Khi chứng minh ba điểm C, B, D thẳng hàng. HS đã tiến hành như sau: A “Do: ·ABC 90 ( vì chắn nửa (O)) O O' Và ·ABC ·ABD 180 90 90 D Nên: ·ABC ·ABD 90 90 180 . C B Vậy ba điểm C, B, D thẳng hàng” Nếu GV không đọc kĩ lời giải sẽ không phát hiện ra HS sai lầm khi tính góc ABD do đã ngộ nhận 3 điểm C, B, D thẳng hàng. Bước 4: Chốt lại vấn đề: Bao gồm chốt kiến thức vận dụng và phương pháp giải. GV tổng hợp kiến thức thành một hệ thống câu hỏi hay bài tập để về nhà giúp HS tự kiểm tra, đánh giá việc tiếp thu kiến thức tại lớp của mình, đồng thời mở ra một vấn đề mới để ngỏ cho HS phải suy nghĩ và chờ đợi tiết học sau để được giải quyết. Tóm lại: Có nhiều cách để thực hiện giáo án mang lại hiệu quả. Trong đó, có lúc GV là “người dẫn chương trình” để HS lần lượt thực hiện chương trình mà GV chính là “đạo diễn”; cũng có lúc là người “quản trò” để tổ chức cho HS chơi các trò chơi vận dụng kiến thức làm cho tiết luyện tập trở thành một tiết học nhẹ nhàng, thoải mái hơn nhằm tạo hứng thú cho HS học tập. Từ đó, giúp HS được khắc sâu kiến thức và học tập ngày càng tiến bộ hơn. d) Về phương tiện + Cần dự tính xem trong tiết luyện tập sẽ dùng những phương tiện thiết bị dạy học nào như: Phấn màu dùng để làm nổi bật kiến thức quan trọng nào, bảng phụ dùng để ghi nội dung bài tập hay hệ thống lại lí thuyết quan trọng nào, hình vẽ nào, cần những đồ dùng dạy học nào đã có hay tự làm những đồ dùng khác cho phù hợp, phiếu học tập để kiểm tra việc lĩnh hội kiến thức của HS, 9
  6. Trên đây là một vài cách thực hiện tiết luyện tập mà tôi đã vận dụng. Trong quá trình dạy, GV cần phải nghiêm khắc, uốn nắn các sai sót mà HS mắc phải. Khuyến khích các em học chậm khi các em làm đúng, không nên chê bai HS yếu kém mà thay vào đó lời động viên khích lệ để các em có niềm tin, đồng thời khơi dậy lòng ham học tiềm ẩn trong các em từ đó xoá dần cảm giác mặc cảm mà hòa mình vào không khí thi đua chung của cả lớp. GV cần phụ đạo kịp thời và kiên nhẫn phụ đạo cho HS yếu. Đối với HS khá giỏi thì GV phải thường xuyên tạo tình huống có vấn đề để các em không cảm thấy nhàm chán bởi tiết học đơn điệu mỗi khi GV nạp lại kiến thức cho HS yếu. Dành thời gian nghiên cứu kĩ SGK, SGV và các sách tham khảo cũng như chuẩn kiến thức để có thêm nhiều kiến thức mới. Cố gắng tạo ra nhiều hình thức thi hay trò chơi để không gây nhàm chán, gò bó khi học môn hình học. Muốn thực hiện tốt tiết luyện tập hình học cần phải đầu tư khá nhiều công sức vào vấn đề chọn bài tập cho phù hợp với tiết dạy và chọn phương pháp cũng như phương tiện hỗ trợ quá trình dạy học như thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. Từ đó, xây dựng kế hoạch và thời gian thực hiện trên lớp theo từng nội dung cụ thể. 2.3.2.2. Đối với HS - Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập theo yêu cầu của GV; - Nắm được các kiến thức cũ có liên quan đến tiết luyện tập; - Bản thân HS phải thể hiện sự cố gắng, có ý thức tự học, tự rèn, kiên trì và chịu khó trong học tập. Dành thời gian tìm hiểu nhiều dạng toán, đầu tư tìm tòi nhiều cách giải cho cùng một bài toán; - Sau khi học xong tiết này, HS phải ghi nhớ được những kiến thức trọng tâm của bài và biến nó thành vốn kiến thức của mình. Có ý thức vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các bài toán thực tế. Kết quả thu được sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi thấy HS có hứng thú học tiết luyện tập hình học như sau: - Hứng thú: 51.42 %; - Bình thường: 38.27 %; 11