Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh qua bài dạy Hình thoi

doc 20 trang Sơn Thuận 07/02/2025 420
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh qua bài dạy Hình thoi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_theo_huong_phat_huy_tinh_tich.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh qua bài dạy Hình thoi

  1. PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Toán học là công cụ giúp học tốt các môn học khác, chính vì vậy nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nhà trường. Bên cạnh đó nó còn có tiềm năng phát triển các năng lực tư duy và phẩm chất trí tuệ, giúp học sinh hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống sản xuất. Toán học mang sẵn trong đó chẳng những phương pháp quy nạp thực nghiệm, mà cả phương pháp suy diễn lôgic. Nó tạo cho người học có cơ hội rèn luyện khả năng suy đoán và tưởng tượng. Toán học còn có tiềm năng phát triển phẩm chất đạo đức, góp phần hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh. Toán học ra đời từ thực tiễn và lại quay trở về phục vụ thực tiễn. Toán học còn hình thành và hoàn thiện những nét nhân cách như say mê và có hoài bão trong học tập, mong muốn được đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự nghiệp chung của đất nước, ý chí vượt khó, bảo vệ chân lý, cảm nhận được cái đẹp, trung thực, tự tin, khiêm tốn, . Biết tự đánh giá mình, tự rèn luyện để đạt tới một nhân cách hoàn thiện toàn diện hơn. Mặt khác toán học còn có nhiệm vụ hình thành cho HS những kỹ năng: - Kỹ năng vận dụng tri thức trong nội bộ môn toán để giải các bài tập toán. - Kỹ năng vận dụng tri thức toán học để học tập các môn học khác. - Kỹ năng vận dụng tri thức toán học vào đời sống, kỹ năng đo đạc, tính toán, sử dụng biểu đồ, sử dụng máy tính .Tuy nhiên cả ba kỹ năng trên đều có quan hệ mật thiết với nhau. Kỹ năng thứ nhất là cơ sở để rèn luyện hai kỹ năng kia. Chính vì vậy kỹ năng vận dụng kiến thức để giải bài tập toán là vô cùng quan trọng đối với học sinh. Trong đó việc trình bày lời giải một bài toán chính là thước đo cho kỹ năng trên. Để có một lời giải tốt thì học sinh cần có kiến thức, các kỹ năng cơ bản và ngược lại có kiến thức, có các kỹ năng cơ bản thì học sinh sẽ trình bày tốt lời giải một bài toán. Phương pháp dạy học được hiểu là một hệ thống liên tục của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh để lĩnh hội vững chắc các thành phần nội dung giáo dục nhằm đạt được những mục tiêu đã định 1
  2. Từ đó các em sẽ hiểu, nhớ và vận dụng những kiến thức đã tiếp thu được vào việc giải các bài tập hình học (bao gồm cả những bài toán có tính thực tiễn) tạo cho học sinh hứng thú học toán. 3
  3. phải dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh. 1.2. Cơ sở thực tiễn. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm tôi thấy đa số học sinh có tư tưởng ngại học hình vì bộ môn này đòi hỏi phải tư duy trừu tượng khá cao. Có nhiều học sinh chưa biết trình bầy, chưa biết vẽ hình, lập luận chưa chặt chẽ, sử dụng thuật ngữ chưa chính xác. Bởi vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng đổi mới phương pháp dạy học toán nói chung, phân môn hình học nói riêng nhằm mục đích giúp học sinh bằng những vốn kiến thức đã biết, thông qua các hoạt động trí tuệ để tự lực tìm ra kiến thức mới. Từ đó các em sẽ hiểu, nhớ và vận dụng những kiến thức đã tiếp thu được vào việc giải các bài tập hình học (bao gồm cả những bài toán có tính thực tiễn) tạo cho học sinh hứng thú học toán. Với bài viết này tôi chọn ví dụ minh hoạ cho phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh qua bài dạy "Hình thoi" ( Hình học 8). 2. Chương 2. Nội dung vấn đề nghiên cứu. 2.1. Thực trạng - Khảo sát (thống kê) *Kết quả khảo sát khi chưa thực hiện chuyên đề Lớp Số bài Giỏi Khá Trung bình Yếu 8 18 SL % SL % SL % SL % 2 11,11% 6 33,34% 8 44,44% 2 11,11% - Đánh giá (phân tích): *Thuận lợi: + Đội ngũ giáo viên được đào tạo đúng ngành học, có chuyên môn vững vàng, không ngừng học hỏi các dồng nghiệp và luôn tự tìm tòi, sáng tạo trong công việc. Đồng thời có nhiệt huyết, say mê với nghề nghiệp, có tình yêu thương với học sinh. + Về phía học sinh: Hầu hết các em đều có ý thức học tập bôn môn, được trang bị đầy đủ đồ dùng học tập. 5
  4. hướng dẫn các hoạt động để học sinh tự lực tiếp thu kiến thức mới, hình thành kỹ năng, thái độ mới theo yêu cầu của chương trình. Muốn vậy giáo viên và học sinh cần có sự chuẩn bị nỗ lực cho giờ học. Sự chuẩn bị đó là việc soạn giáo án, chuẩn bị đồ dùng của giáo viên. Việc chuẩn bị dụng cụ học tập và ôn lại các kiến thức cũ có liên quan đến bài học của học sinh. Để soạn giáo án, giáo viên cần nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, sách tham khảo, sách bài tập, sách giáo viên; Xác định đúng kiến thức cơ bản của tiết học. Thông thường mỗi tiết học ở cấp trung học cơ sở có từ một đến hai kiến thức cơ bản, nhiều nhất là ba kiến thức. Từ đó giáo viên xác định được cụ thể mục tiêu của tiết học là sau khi học song một bài, học sinh của mình phải nắm được những kiến thức kỹ năng gì, hình thành thái độ gì thay cho việc đưa ra những yêu cầu của giáo viên phải đạt được trong bài đó. Bởi theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học thì mục tiêu đề ra là cho học sinh, do học sinh thực hiện qua hoạt động học tập tích cực để đạt được mục tiêu ấy. Giáo viên là người chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn giúp đỡ học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài "Hình thoi" tôi đã xác định mục tiêu bài dạy như sau: - Kiến thức cơ bản: hiểu định nghĩa hình thoi, các tính chất của hình thoi, các dấu hiệu nhận biết một tứ giác là hình thoi. - Học sinh dược rèn luyện các kỹ năng: biết vẽ một hình thoi, biết cách chứng minh một tứ giác là hình thoi. - Thái độ cần có: vẽ hình cẩn thận, chính xác; Biết phối hợp hoạt động tập thể. Với mục tiêu trên, tôi đã hướng dẫn học sinh chuẩn bị kỹ trước các nội dung sau: + Dụng cụ học tập: thước thẳng, ê ke, compa. + Kiến thức liên quan tới bài học: định nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biét hình bình hành. Tính chất tam giác cân. Về phía giáo viên: tôi đã đọc kỹ bài dạy trong sách giáo khoa. Soạn giáo án chi tiết với các hoạt động: tiếp xúc với khái niệm hình thoi qua quan sát đo đạc hình vẽ dẫn đến nắm được định nghĩa; Từ những kiến thức về hình bình hành, bằng phương pháp suy luận, khả năng phán đoán của bản thân để phát hiện tính chất và dấu hiệu nhận biết hình thoi. 7
  5. Học sinh được quan sát, thử nghiệm, dự đoán rồi bằng suy luận để đi đến kiến thực mới. Bởi vậy khi dạy các tiết lý thuyết tôi thường tổ chức các em qua các hoạt động của bản thân, nhờ hoạt động tự giác, tích cực để pháp hiện kiến thức mới. Vì học sinh sẽ nhớ những kiến thức mà các em tự tìm tòi, khám phá nhờ sự hướng dẫn của giáo viên. - Khi dạy định nghĩa khái niệm tôi thường cho học sinh tiếp xúc khái niệm trước khi khái niệm được định nghĩa. Tiếp xúc bằng cách: cho học sinh quan sát quá trình hình thành khái niệm đó hoặc quan sát hình vẽ đối tượng đó để đi đến định nghĩa khái niệm. Bằng những kiến thức đã biết học sinh có thể định nghĩa khái niệm bằng các cách khác nhau (nếu có thể được). Ví dụ: + Khi dạy định nghĩa hình thoi tôi đã tiến hành hoạt động thứ nhất như sau: quan sát hình vẽ, đo và so sánh độ dài các cạnh của tứ giác ABCD (hình vẽ tôi đã vẽ sẵn hình thoi ABCD trên bảng phụ nhưng chưa ký hiệu AB = BC = CD = DA). B AC D Sau khi học sinh đo và so sánh được AB = BC = CD = DA tôi mới ký hiệu bằng nhau trên hình vẽ các cạnh của tứ giác ABCD và giới thiệu với học sinh: tứ giác ABCD như vậy gọi là hình thoi ABCD. Sau đó yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: hình thoi là hình như thế nào? Đa số học sinh trả lời được: hình thoi là tứ giác có 4 cạnh bằng nhau. Đó chính là định nghĩa hình thoi mà học sinh dễ hiểu nhất. Sau hoạt động thứ nhất, học sinh nắm vững được hình thoi là tứ giác có 4 cạnh bằng nhau tôi tiến hành tổ chức hoạt động 2 cho học sinh nhằm củng cố dấu hiệu nhận biết hình bình hành đã học và để giúp học sinh có thêm cách định nghĩa hình thoi theo hình bình hành bằng cách yêu cầu học sinh thực hiện ?1: Chứng minh tứ giác ABCD ở hình 100 cũng là một hình bình hành. 9
  6. Kết thúc hoạt động ?2 tôi đã chốt được: hình thoi là hình bình hành đặc biệt như chúng ta đã biết qua ?1 nên ngoài những tính chất chung của hình bình hành nó còn có tính chất đặc trưng riêng là hai đường chéo hình thoi vuông góc với nhau và chúng là đường phân giác của các góc của hình thoi. * Phương pháp dạy học đổi mới yêu cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn. Trong các tiết học các em đã được thảo luận nhóm để phát hiện những kiến thức mới (như đã lấy ví dụ ở phần trên). Trong lớp thường xuyên xuất hiện những sai lầm của học sinh, nhiều khi giáo viên không chữa ngay lỗi của học sinh mà đưa ra cho cả lớp thảo luận xem đó như là tình huống phát huy tính tích cực. Giáo viên cũng nên chủ động đưa ra những đề tài để học sinh thảo luận, tranh luận. Ví dụ: Khi dạy tiết luyện tập của bài hình thoi tôi đưa ra đề bài để học sinh thảo luận: trong các cách định nghĩa sau, cách nào đúng? Cách 1: hình thoi là tứ giác có 4 cạnh bằng nhau. Cách 2: hình thoi là tứ giác có hai đường chéo vuông góc với nhau tại trung điểm mỗi đường. Cách 3: hình thoi là hình bình hành có hai cạnh kề bằng nhau. Cách 4: hình thoi là hình bình hành có hai đường chéo vuông góc với nhau. Cách 5: hình thoi là hình bình hành có một đường chéo là phân giác của một góc. Để học sinh tranh luận ít phút rồi tôi mới kết luận là cả 5 định nghĩa trên đều đúng. Nhưng định nghĩa theo cách 1 chúng ta dễ hiểu hơn. * Trên cơ sở học sinh nắm vững kiến thức đã học, khi chứng minh hình học, giáo viên lưu ý học sinh lập luận có căn cứ , mỗi khi đưa ra một lập luận mới nào phải trả lời được câu hỏi 'Điều này có được do đâu?", "Từ định lý nào?" Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh chứng minh rằng các trung điểm của 4 cạnh của hình chữ nhật là 4 đỉnh của hình thoi (bài 75 SGK). A B C D 11
  7. + Khi dạy học sinh cách vẽ hình thoi trong tiết luyện tập của hình thoi tôi có thể hướng dẫn học sinh cách vẽ như sau: Muốn vẽ hình thoi ABCD ta vẽ hai đoạn thẳng AC và BD vuông góc với nhau tại trung điểm O của mỗi đường rồi nối các đoạn AB, BC, CD, DA được hình thoi ABCD 2.3. Kết quả: * Với thực tế giảng dạy của bản thân qua trao đổi và dự giờ của các đồng nghiệp tại các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn của trường, cụm, thành phố áp dụng phương pháp dạy học đổi mới (theo hướng như đã nêu ở trên) tôi thấy kết quả dạy học có phần tốt hơn: - Học sinh chủ động tiếp thu kiến thức mới thông qua các hoạt động toán học để tìm tòi, phát hiện, tổng hợp, khái quát kiến thức dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Học sinh đã có nhiều em có khả năng tự đọc, tự học hỏi thêm. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. - Lớp học sôi nổi sinh động: Thầy và trò làm việc nhịp nhàng. Học sinh có hứng thú học toán nói chung và học hình học nói riêng. Trên đây là một số kinh nghiệm trong Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh qua bài dạy Hình thoi lớp 8 mà tôi đã đúc kết trong thời gian vừa qua. Sau khi thực hiện chuyên đề kết quả thu được như sau: Lớp Số bài Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 8 18 4 22,2% 7 38,9% 7 38,9% 0 0 2.4. Rút ra bài học kinh nghiệm: Trong quá trình triển khai, áp dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy, tôi rút ra được một số điều đáng chú ý như sau: + Khi hướng dẫn và rèn kĩ năng cho học sinh giáo viên phải áp dụng một cách linh hoạt, không dập khuôn, máy móc. + Cần phải phân loại đối tượng học sinh để có phương pháp phù hợp với từng nhóm. Với nhóm học sinh có khả năng nhận thức nhanh thì có một phương pháp, với nhóm học sinh nhận thức chậm ta có phương pháp khác đơn giản và cụ thể hơn. 13
  8. PHẦN III : KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Qua thực tế kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, với nội dung và phương pháp nêu trên đã giúp học sinh có cái nhìn toàn diện hơn về Toán học nói chung. Vấn đề tôi thấy học sinh khá, giỏi rất hứng thú với việc làm mà giáo viên đã áp dụng trong chuyên đề này. Trong tất cả các hoạt động, nếu người tham gia hoạt động mà không có hứng thú tự giác với hoạt đông thì không thể có kế quả tốt được. Trong hoạt động nhận thức toán học cũng vậy, hứng thú là yếu tố dẫn tới sự tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý bảo đảm tính tích cực và độc lập sáng tạo trong học tập - Đó là nhân tố không thể thiếu của người học trong việc áp dụng phương pháp dạy học mới: trò chủ động, tự nguyện, độc lập, tìm tòi; thầy là người tổ chức, thiết kế, cố vấn. Với kinh nghiệm dạy học của bản thân, tôi thấy để hình thành và phát triển hứng thú nhận thức của học sinh thì người thầy cần có được các điều kiện sau đây: - Người thầy phải biết tạo ra không khí thuận lợi cho lớp học, làm cho trò cảm thấy thích thú khi được học toán, mong đợi đến giờ học. Muốn thế phải tạo ra sự giao tiếp thuận lợi giữa thày và trò. Bằng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình, người thày phải tạo được uy tín cao. Bằng tình cảm gần gũi thân mật, người thày phải biết chiếm được sự tin cậy của trò. Bằng cách điều khiển hợp lý các hoạt động của từng cá nhân và tập thể lớp, người thày sẽ tạo được hứng thú học tập cho cả lớp và niềm vui của từng học sinh. Ví dụ: Người thày phải hết sức tránh sai lầm về kiến thức trong khi dạy học. Khi đánh giá học tập của học sinh chúng ta phải công bằng, công khai trước học sinh: chẳng hạn sau khi kiểm tra miệng ta nên cho học sinh khác nhận xét đánh giá, giáo viên là người trọng tài chính thức trước khi cho điểm vào sổ; hoặc đã kiểm tra viết là phải chấm, phải trả bài học sinh, khi trả bài nên dành một chút ít thời gian để các em xem lại bài làm ứng với kết quả mà cô giáo đã đánh giá, nếu học sinh nào thắc mắc thì giáo viên giải thích công khai trước lớp để bản thân học sinh đó nhận ra sai lầm của mình, nếu lỗi thuộc về giáo viên thì ta cũng nên xin lỗi trước học sinh. Có như vậy học sinh sẽ cảm thấy tin tưởng ở thày, 15
  9. quan (hay chán nản bi quan) chẳng hạn với những học sinh yếu ta nên động viên khích lệ từng thành công của các em dù là nhỏ, với học sinh khá giỏi ta nên có yêu cầu cao hơn một chút với học sinh khác; tuyệt đối không nên bao giờ có giọng trì trích mỉa mai khi học sinh mắc lỗi mà cần lắng nghe, phân tích kết quả hành động của học sinh giúp các em vượt qua những lỗi đó. Bởi ở lứa tuổi này các em mong muốn được người lớn tôn trọng nhân cách, tin tưởng và mở rộng tính độc lập của mình. Nếu giáo viên chúng ta không nhận thức được nhu cầu này để có quan hệ giao tiếp tốt thì sẽ gây ra phản ứng bướng bỉnh, không vâng lời, xa lánh - Tác dụng giáo dục sẽ bị hạn chế. Học sinh trung học cơ sở còn có nhu cầu lớn trong giao tiếp bạn bè, khao khát được hoạt động chung với nhau, muốn được bạn bè tôn trọng, công nhận năng lực của mình, sợ bạn bè tẩy chay xa lánh. Giáo viên nên nắm vững đặc điểm tâm lý này để phát huy phương pháp dạy học hợp tác nhóm nhỏ - Một trong những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh ở trường trung học cơ sở. 2. Kiến nghị: Trong quá thực hiện kinh nghiệm ngoài lòng nhiệt tình và ý thức trách nhiệm với nghề, giáo viên còn gặp phải không ít khó khăn về khách quan vì vậy tôi xin mạnh dạn kiến nghị một số vấn đề sau: 2.1. Phòng GD&ĐT - Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên dạy toán. Nên tổ chức các hội thảo chuyên đề chuyên sâu cho giáo viên trong tỉnh. - Các cấp có trách nhiệm phổ biến những kinh nghiệp giảng dạy trong các đợt hội giảng tới các trường trung học cơ sở để mọi người có điều kiện áp dụng. 2.2. Với BGH nhà trường - Hiện nay, nhà trường đã có một số sách tham khảo tuy nhiên có vẻ như chưa đầy đủ. Vì vậy nhà trường cần quan tâm hơn nữa về việc trang bị thêm sách tham khảo môn Toán để học sinh được tìm tòi, học tập khi giải toán để các em có thể tránh được những sai lầm trong khi làm bài tập và nâng cao hứng thú, kết quả học tập môn toán nói riêng, nâng cao kết quả học tập của học sinh nói chung. Trên đây là kết quả bước đầu tôi đã thực hiện thông qua thực tiễn giảng dạy khối lớp 8 trong nhà trường THCS. Mặc dù đã rất cố gắng song không tránh 17