Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh THPT học giờ tự chọn môn Văn

doc 9 trang sangkien 27/08/2022 7940
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh THPT học giờ tự chọn môn Văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • dockinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_thpt_hoc_gio_tu_chon_mon_van.doc

Nội dung text: Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh THPT học giờ tự chọn môn Văn

  1. KINH NGHIỆM HƯÓNG DẪN HỌC SINH THPT HỌC GIỜ TỰ CHỌN MÔN VĂN A. PHẦN MỞ ĐẦU Từ năm học 2006-2007, Bộ GD&ĐT đã có hướng dẫn các trường THPT trên toàn quốc thực hiện tổ chức dạy học tự chọn. Môn ngữ văn là một trong những môn có tổ chức dạy học tự chọn. Môn ngữ văn trong nhà trường THPT là môn học không được nhiều học sinh yêu thích chứ chưa nói là say mê. Nhiều học sinh chán học văn, ngán học văn, thậm chí “ghét” môn văn. Đã có những bài viết đăng tải trên thông tin đại chúng phản ánh những lời kêu ca, phàn nàn của học sinh như là lời kêu cứu cho môn học. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân nhưng theo chúng tôi thì có hai nguyên nhân chính: Thứ nhất về phía học sinh: Hầu hết các em chọn “ miền đất khoa học tự nhiên” để “gieo mầm” cho sự sống tương lai. Hiện nay các trường THPT, học sinh đăng ký học ban KHXH rất ít, thậm chí có trường không có một lớp nào cả, 100% học sinh đăng ký học ban KHTN. Các em lao vào học các môn tự nhiên như : toán, lý, hoá một cách say mê cả ngày lẫn đêm, trong trường và ngoài trường. Các em đâu có thời gian dành cho môn khác trong đó có môn văn. Vì sao lại có hiện tượng đó? Trước hết là vì nhận thức chưa đúng đắn của các em về môn học, về giáo dục toàn diện. Nhưng sau nữa cũng vì một lẽ thuộc về cơ chế xã hội: các trường đại học tuyển sinh khối A,B là chủ yếu; học khối C ra trường nhiều sinh viên không biết đi đâu, về đâu. Làm sao bắt các em “ mặn mà” với khối C, với môn văn được. Thứ hai về phía giáo viên dạy văn: không ít người vẫn dạy theo lối cũ. Đó là lối dạy thuyết trình, đọc chép, kiến thức chưa sâu nên chưa đổi mới được phương pháp hoặc dạy theo kiểu biểu diễn nặng về hình thức, công thức, không khí giờ học nặng nề, căng thẳng, thiếu dân chủ, gây áp lực cho học sinh . Không ít học sinh ca thán rằng: nhiều thày, cô dạy “ khô như ngói”, “tẻ như cơm nguội” chẳng hấp dẫn gì cả. Làm thế nào để kéo những học sinh chán văn, ngán văn, ghét văn trở nên thích học văn, chủ động, sáng tạo trong học văn? Làm thế nào để học sinh không chỉ thích học giờ chính khoá môn văn mà còn thích học cả giờ tự chọn môn văn nữa? Đó là trách nhiệm của cả xã hôi, của những người làm công tác giáo dục nhưng trước hết là của những người trực tiếp dạy văn. Là một giáo viên dạy văn đã nhiều năm ở trường THPT có trách nhiệm với nghề nghiệp, tôi đã từng băn khoăn, trăn trở trước thực trạng trên, cố gắng tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với từng bài, phù hợp với đối tượng học sinh từng lớp, tạo không khí đối thoại thoải mái với học sinh trong các tiét học. Và qua bài viết này, tôi rất muốn được trao đổi với các bạn đồng nghiệp- những người dạy văn- về kinh nghiệm hướng dẫn học sinh THPT học giờ tự chọn môn văn mà tôi đã sử dụng trong những năm qua. B. PHẦN NỘI DUNG I. Quan niệm về giờ tự chọn môn văn
  2. Giờ tự chọn môn văn là những giờ học có tính chất bổ trợ cho những giờ học chinh khoá môn văn. Nhiệm vụ của những tiết học này là củng cố, hệ thống hoá kiến thức, bổ sung, mở rộng, đào sâu kiến thức cho học sinh. Giờ tự chọn môn văn cần phải “thoáng”, có nghĩa là phải thực sự thoải mái, dân chủ, không nên gò học sinh vào những “khuôn” đã định sẵn, đừng “ bắt” học sinh phải cảm nhận các vấn đề văn học giống nhau và giống với thầy, cô. Thầy, cô hãy coi tài liệu về chủ đề tự chọn của các nhà viết sách như một tài liệu tham khảo, không nên quá lệ thuộc vào nó. Người dạy nên tìm ra nội dung và phương pháp riêng phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với điều kiện nhà trường và tất nhiên là phải đi đúng hướng giáo dục, đúng với đặc trưng môn học. Giờ tự chọn môn văn phải được thực hiện: vừa dạy văn vừa dạy tiếng, vừa cung cấp kiến thức vừa rèn luyện đạo đức, vừa học vừa chơi. Nếu kết hợp được những yếu tố đó thì sẽ thu hút được học sinh, sẽ kéo học sinh vào hoạt động học, “ bắt”các em tham gia tích cực vào quá trình hình thành tri thức, củng cố, hệ thống hoá tri thức, mở rộng, đào sâu tri thức Từ 500 năm trước, Khổng Tử đã từng nói: “ Nói cho tôi biết, tôi sẽ quên; chỉ cho tôi thấy, có thể tôi sẽ nhớ; cho tôi tham gia, tôi sẽ hiểu” . Mục tiêu của giờ văn nói chung, giờ tự chọn nói riêng là giáo viên đưa tất cả học sinh tham gia vào hoạt động học một cách tích cực, chủ động, hào hứng giúp các em chiếm lĩnh được nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Giáo viên lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi, tranh luận, thảo luận của học sinh. Tóm lại giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học của học sinh. II. Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh THPT học giờ tự chọn môn văn Sau khi hướng dẫn học sinh thực hiện những chủ đề tự chọn theo kế hoạch giảng dạy đã xây dựng, tôi thường tổ chức cho học sinh học giờ tự chọn qua một số hình thức sau: 1. Giải ô chữ văn học Đây là sân chơi trí tuệ không mới nhưng chưa bao giờ là cũ, học sinh khá hứng thú với sân chơi này. Tuỳ vào thời điểm trong năm học, tôi tìm ra những ô chữ thích hợp để cho học sinh chơi. Ví như vào dịp 20/10- ngày phụ nữ Việt Nam, dịp 8/3- ngày Quốc tế phụ nữ, trong giờ học tự chọn sẽ xuất hiện ô chữ về chủ đề phụ nữ.Vào dịp ngày Quốc phòng toàn dân có thể đưa ra ô chữ về người lính. Vào dịp mùa xuân có thể đưa ra ô chữ về mừng Đảng, mừng xuân, học Truỵện Kiều sẽ ô chữ về Truyện Kiều - Xin được giới thiệu một ô chữ mang tên: Nữ sĩ Việt Nam Cách tổ chức: + Giáo viên đưa ra một ô chữ có 11 hàng ngang tương ứng với một hàng dọc có 11 chữ cái. Khi giải hết hàng ngang, ta sẽ được một ô hàng dọc có tên là: Nữ sĩ Việt Nam + Giáo vên đặt câu hỏi cho các ô hàng ngang, đại diện các tổ trả lời theo thứ tự đã quy định, giáo viên nêu đáo án sau khi có câu trả lời. Câu hỏi: 1. Nữ sĩ này được vua Minh Mệnh triệu tập vào cung làm “ Cung trung giáo tập”. 2. Tên tờ báo đầu tiên chuyên viết về giới nữ ở Việt Nam. 3. Tên một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh có cập hìmh tượng sóng đôi. 4. Tác giả bài thơ “ Hương thầm”.
  3. 5. Bút danh của nữ sĩ Đào Thị Minh 6. Tác giả bài thơ “ Khoảng trời hố bom”. 7. Nhà thơ nữ nổi tiếng đời Lý. 8. Tên thật của nữ sĩ có bút danh là “Hồng Hà nữ sĩ” 9. Nhà thơ này được mệnh danh là “ Bà chúa thơ Nôm”. 10. Nữ sĩ đạt giải khuyến khích về thơ của Tự Lực văn đoàn năm 1939 có tập thơ “ Bức tranh quê”. 11. Tác giả bài thơ “ Cánh cửa nhớ bà” và bài “ Chồng chị chồng em”. Đáp án: B A H U Y Ê N T H A N H Q U A N N Ư G I Ơ I C H U N G S O N G P H A N T H I T H A N H N H A N V Â N Đ A I L Â M T H I M Y D A D I Ê U N H Â N N I S Ư Đ O A N T H I Đ I Ê M H Ô X U Â N H Ư Ơ N G A N H T H Ơ Đ O A N T H I L A M L U Y Ê N Sau khi học sinh giải xong ô chữ, GV đánh giá nhận xét khái quát: Đội ngũ văn nghệ sĩ của Việt Nam rất đông đảo trong đó lực lượng nữ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Các nữ sĩ Việt Nam đã lấy bút nghiên để tô điểm sơn hà, góp phần vào công cuộc giải phóng phụ nữ, khẳng định tài năng, phẩm giá cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. 2. Giải câu đố vui Giáo viên sưu tầm hoặc nghĩ ra một số câu đố vui về văn học, tổ chức cho học sinh giải trong thời gian khoảng 10- 15 phút sau một chủ đề tự chọn đã tìm hiểu. Phần này học sinh có thể chơi như sân chơi Rung chuông vàng * Đố vui về Truyện Kiều: Câu 1: Câu nào bạn hãy kể ra Chị em nàng Thuý chính là sinh đôi? Đáp án: Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chi, em là Thuý Vân Câu 2: Thời gian như thể thoi đưa Câu Kiều nào tả bốn mùa bạn ơi? Đáp án: Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
  4. Câu 3: Bạn giải vừa giỏi vừ hay Hỏi bạn có biết ai què tay trong Kiều? Đáp án: Một tay gây dựng cơ đồ Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành ( nhân vật Từ Hải) * Đố vui về nhà thơ Câu 1: Nhà thơ nào giỏi học hành Trường quy phạm mãi nên đành rớt oan? Đáp án: Trần Tế Xương (Trần Tế Xương có câu thơ” Thi không ăn ớt thế mà cay”) Câu 2: Nhà thơ nào túng tiền tiêu Mưu toan dự tính bán liều trời xanh? Đáp án: Nhà thơ Tản Đà ( Tản Đà có câu thơ “ Khi túng toan lên bán cả trời”) Câu 3: Nhà thơ nào thích đi câu Câu hoài chẳng được con nào buồn thiu? Đáp án: Nhà thơ Nguyễn Khuyến ( NK có câu thơ “ Tựa gối ôm cần lâu chửng được/ Cá đâu đớp động dưới chân bèo) Câu 4: Vua gì sáng lập đứng đầu Hội thơ xướng hoạ cùng nhau luận bình? Đáp án: Lê Thánh Tông ( Lê Thánh Tông sáng lập Hội Tao đàn và ông là chủ soái) 3. Đặt tên người Việt vào danh tác Việt ( Học sinh đọc những câu thơ Việt Nam có một chữ trùng với tên một học sinh trong lớp) Đây là cách giáo viên giúp học sinh liên kết các danh tác cũng là xâu chuỗi những cái tên, gieo vào các em niềm tin, trách nhiệm vào chính cái tên của mình. Đây cũng là cách dạy học tích hợp, khá vui, hấp dẫn học sinh. Cách thực hiện: Giáo viên chia nhóm học sinh, mỗi nhóm tạo thành cặp đối thủ của nhau. Lần lượt mỗi cặp đọc lên một câu thơ có tên thành viên của đội bạn. Bạn nào được nhắc đến tên phải tìm ngay một câu thơ khác có tên của đối thủ. Bên nào thua sẽ phải đọc trọn ven một bài thơ có trong chương trình do giáo viên chọn. Ví dụ về một buổi học cụ thể: Nhóm 1, nhóm trưởng tên là Bình bắt đầu: Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới (Đất nước- nguyễn Đình Thi) Nhóm 2, người có tên Thu đáp lại ngay: Thủa nhỏ tôi ra sông Na câu cá
  5. Níu váy bà đi chợ Bình Lâm (Đò Lèn- Nguyễn Duy) Bình tiếp luôn: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ( Tây Tiến- Quang Dũng) Hà vội vàng: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì ( Vội vàng - Xuân Diệu) Cứ thế các nhóm tiếp tục nhau, giờ học trở nên sôi động, hào hứng. Hết giờ học sinh kêu lên: Sao nhanh hết gìơ thế? 4. Tìm tên tác giả, tác phẩm văn học Cách tổ chức: Mỗi học sinh mang theo một bảng nhỏ, ghi câu trả lời vào bảng. Khi có hiệu lệnh thì giơ bảng lên, giáo viên làm trong tài chấm điểm. Xin giới thiêu 10 câu đã thực hiện: Câu 1: Tác phẩm văn học Việt Nam được đánh giá là “Thiên cổ kỳ bút” ( bút lạ của muôn đời) Đáp án: Truyện kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ Câu 2: Tác phẩm kịch nói đầu tiên của Việt Nam? Đáp án: Chén thuốc độc của Vũ Đình Long Câu 3: Tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam? Đáp án: Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách Câu 4: Nhà văn viết tuỳ bút nổi tiếng Việt Nam là ai? Đáp án: Nguyễn Tuân Câu 5: Truyện thơ nào có 3254 câu thơ? Đáp án: Truyện Kiều của Nguyễn Du Câu 6: Dòng sông trong tác phẩm nào được nhà văn Nguyễn Tuân nhìn như một cố nhân loé lên mảng nắng tháng ba trong Đường thi? Đáp án: Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân Câu 7: Tác phẩm nào của Hồ chí Minh có 133 bài thơ: Đáp án: Nhật ký trong tù Câu 8: Tiền thân của truyện ngắn “ Vợ nhặt” ( Kim Lân) là tác phẩm nào? Đáp án: Xóm ngụ cư Câu 9: Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lúc đầu có tên là gì? Đáp án: Nhớ Tây Tiến