Báo cáo Tóm tắt sáng kiến, cải tiến đề nghị công nhận danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở năm 2017

doc 11 trang sangkien 01/09/2022 5940
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Tóm tắt sáng kiến, cải tiến đề nghị công nhận danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docbao_cao_tom_tat_sang_kien_cai_tien_de_nghi_cong_nhan_danh_hi.doc

Nội dung text: Báo cáo Tóm tắt sáng kiến, cải tiến đề nghị công nhận danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở năm 2017

  1. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do- Hạnh phúc BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN, CẢI TIẾN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN DANH HIỆU CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP CƠ SỞ NĂM 2017 Kính gởi: Hội đồng Thi đua - Khen thưởng PGD&ĐT Thanh Bình I. SƠ LƯỢC BẢN THÂN - Họ và tên: Hồ Toàn Thiện Năm sinh: 1981 - Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Đại học sư phạm Ngữ văn - Chức năng, nhiệm vụ được phân công: Giáo viên dạy lớp - Đơn vị công tác: Trường THCS Bình Tấn- huyện Thanh Bình- tỉnh Đồng Tháp. II. NỘI DUNG 1.Nêu thực trạng tình hình của tập thể, cá nhân trước khi lập thành tích, có sáng kiến, giải pháp, đề tài nghiên cứu : Năm học 2016 - 2017, Sở giáo dục và Đào tạo Đồng Tháp nêu cao khẩu hiệu hành động cho năm học mới và cả giai đoạn từ nay đến năm 2020 là "Học sinh đất sen hồng hướng tới tự tin, tự lực, biết phản biện, gắn kết thực tiễn, định hướng tương lai". Như vậy, việc hình thành sự tự tin, biết phản biện là một trong những yêu cầu mà ngành giáo dục tỉnh nhà đang hướng tới trong một tương lai gần để tạo nên thương hiệu cho giáo dục Đồng Tháp. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay,nhiều học sinh còn thiếu tự tin và không biết phản biện, điều đó tạo nên sức ì rất lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học, chỉ đổi mới ở phía người thầy mà trò không đổi mới thì chỉ thành công một nửa. Để khắc phục những vấn đề trên không phải dễ dàng, mà phải là sự nỗ lực từ nhiều phía, nhiều yếu tố. Trong đó việc rèn luyện thế nào để học sinh tự tin, biết phản biện là một yêu cầu cấp thiết. 2.Tên sáng kiến và lĩnh vực áp dụng: 1
  2. 2.1. Tên sáng kiến: Có nhiều học sinh không đủ tự tin để trình bày về một vấn đề học tập hay về một lĩnh vực của đời sống, khi tiếp nhận thì chưa biết phản biện, chưa biết đặt ra câu hỏi tại sao phải như thế này mà không là như thế kia Vì sao lại có thực trạng như vậy, phải làm thế nào để giải quyết thực trạng đó, để trả lời cho câu hỏi này, tôi đã chọn đề tài: “Rèn luyện sự tự tin và biết phản biện cho học sinh cấp THCS thông qua môn Ngữ văn”. 2.2. Lĩnh vực áp dụng: Chất lượng dạy học môn Ngữ văn của huyện Thanh Bình nói chung của đơn vị trường THCS Bình Tấn nói riêng, thời gian gần đây có kết quả chưa thực sự vững chắc, điều đó được thể hiện qua kết quả của một số kì thi quan trọng như kì thi chọn học sinh giỏi cấp huyện, thi tuyển sinh vào lớp 10,trong đó đó nguyên nhân thiếu tự tin và chưa biết phản biện . Với đề tài này, tôi hy vọng sẽ giúp học sinh đủ tự tin và biết phản biện về những vấn đề học tập cũng như trong cuộc sống. Và có thể áp dụng rộng rãi cho việc giảng dạy môn Ngữ văn. 3.Mô tả nội dung, bản chất của sáng kiến Trước tiên cần minh định thế nào là tự tin, tự tin là tin tưởng vào khả năng của bản thân, chủ động trong mọi việc, hành động một cách chắc chắn, cương quyết, dám nghĩ, dám làm, không hoang mang dao động. Phản biện là một nỗ lực nhất quán nhằm xem xét bất cứ niềm tin nào hay bất cứ hình thức tri thức nào dưới ánh sáng của các minh chứng hỗ trợ cho nó và những kết luận xa hơn mà nó nhắm tới. Hiện nay phần lớn học sinh học tập còn thụ động, nhận thức xã hội của một bộ phận học sinh còn thấp, mới nhìn thấy những nhiệm vụ trước mắt mà chưa xác định được mục tiêu lâu dài, chưa có trách nhiệm với bản thân. Đây là lỗi hệ thống, ngay từ khi học tiểu học, học sinh luôn trông chờ vào sự dẫn dắt, làm thay của thầy cô, cha mẹ. Lên cấp THCS, đây là môi trường đòi hỏi tính tự lập và tự học cao hơn nhưng học sinh vẫn thụ động, cộng với cách giảng dạy của nhiều thầy cô cũng thụ động (kiểu thầy đọc, trò chép), nên kiến thức và cách sáng tạo của học sinh còn hạn chế nhiều. Thế thì để rèn luyện cho học sinh biết phản biện người thầy phải như thế nào ? 2
  3. Khi nghe thầy giảng mà học sinh không hiểu, có thể hỏi lại, đó cũng là phản biện. Khi thầy đưa ra một luận điểm, nếu thấy luận điểm của thầy chưa chuẩn cũng có thể phản biện, tranh luận với thầy. Học sinh có thể lật lại vấn đề mà thầy đang nói, có thể xoay nó dưới nhiều chiều, có thể bổ sung thông tin Thầy cô cũng nên chấp nhận thói quen tư duy phản biện của học sinh . Phản biện trên tinh thần của tôn sư trọng đạo; những lúc bật lại thầy, lớp học thêm sôi động và tăng tính động cho lớp học, thu hút sự tham gia hào hứng của học sinh . Nhưng muốn phản biện, phải tự tin, tự học, tự nghiên cứu mới có kiến thức để tranh luận. Để có được sự tự tin thì phải rèn luyện, để biết phản biện thì phải biết đặt vấn đề, để có được sự tự tin và biết phản biện không phải đó là ngày một ngày hai mà là cả một quá trình lâu dài và cố công luyện tập . Để rèn luyện cho học sinh sự tự tin và biết phản biện, tôi chọn cách thực hiện như sau: Thứ nhất: Quan sát để phát hiện những học sinh thiếu tự tin Tôi tiến hành làm khảo sát : Trong giờ học , tôi đặt câu hỏi với 18 học sinh, trong đó có 8 học sinh trả lời một tự tin, 10 học sinh trả lời chưa tự tin dù rằng tất cả các em đều hiểu yêu cầu của câu hỏi. Tôi tiếp tục cho học sinh kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm và tự luận, số lượng học sinh được khảo sát là 47, trong đó có 17 học sinh tự tin vào bản thân mình và kết quả của mình, còn lại 30 học sinh chưa tự tin vào bản thân và kết quả làm bài của mình .Qua tìm hiểu tôi phát hiện ra rằng: 1.Các em không tự tin khi trả lời vì không tự tin đứng trước đám đông. 2. Kiến thức chưa vững vàng dẫn đến diễn đạt lòng vòng, không đúng trọng tâm. 3.Khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ hạn chế, vốn từ hạn chế nên không diễn đạt được (khi nói và viết). 4. Tâm lí bị ức chế dẫn đến việc quên tạm thời (khi nói và viết). Để khắc phục những nhược điểm này ở học sinh, tôi tiến hành như sau: Một là phân loại học sinh thiếu tự tin để rèn luyện có hiệu quả, chú ý cả nói và viết. Tôi tạm chia làm 2 loại, loại thứ nhất là do yếu tố tâm lí, loại thứ hai là do sự tích lũy của bản thân học sinh. Đối với loại thứ nhất tôi đề ra kế hoạch rèn luyện như sau: 3
  4. Nói với học sinh là sự tự tin là yếu tố không nhỏ giúp em thành công và có những câu trả lời hay, ấn tượng. Em đừng bao giờ mặc cảm về ngoại hình, đừng sợ rằng mình nói không hay sẽ bị mọi người cười chê. Chỉ cần em tự tin, nói chậm một chút, dõng dạc, nói ngắn gọn tránh rườm rà mà vẫn bao quát được vấn đề thì mọi người chẳng những không cười mà còn rất khâm phục em đấy. Yêu cầu học sinh đứng trước gương và nói,khi đứng trước gương, em hãy tưởng tượng mình đang đứng trước thầy cô và các bạn trong lớp, cứ thoải mái mà nói và phát triển ý tưởng, sai thì sửa lại. Nhiều lần như thế em sẽ thuộc và có cách diễn đạt hay hơn . Tập hít thở sâu và mỉm cười trước khi nói , tự nói với bản thân mình là mình đã học thuộc rồi thì chẳng có lý do nào để ngăn cản cơ hội lấy điểm và thể hiện bản thân trước thầy cô và bạn bè cả. Hít thở thật sâu, mỉm cười để chinh phục những tri thức . Đối với loại thứ hai tôi đề ra kế hoạch rèn luyện như sau: Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài, học bài kỹ trước khi đến lớp,kỹ ở đây là, ngoài việc làm bài tập để có thể hiểu được kiến thức thì em cũng phải đọc lại sách, tham khảo tài liệu, liên hệ với thực tế để mình hiểu rõ được bản chất của vấn đề và sẽ nhớ sâu hơn. Yêu cầu học sinh tự đặt câu hỏi và trả lời ở nhà trước, sử dụng phương pháp này mang lại hiệu quả không ngờ. Dựa vào bài học, em có thể tự đặt ra những câu hỏi xoay quanh nó. Vì thầy cô cũng chẳng hỏi gì xa xôi cả, chỉ liên hệ bài học và thực tế một chút thôi. Cẩn thận hơn, em có thể tự đặt câu hỏi, sau đó gạch đầu dòng những ý chính rồi bám theo sườn đó để phát triển. Hai là từng bước rèn luyện sự tự tin với phương châm mưa dầm thấm sâu. Để rèn luyện sự tự tin ở học sinh đó là cả một quá trình luyện tập lâu dài,cả thầy và trò cùng nhau cộng lực, không thể nóng vội, phải lập kế hoạch ngắn hạn (một ngày, một tuần, một tháng) và kế hoạch dài hạn (một học kỳ, một năm và lâu hơn). Ví dụ: Tuần thứ nhất, giáo viên chỉ yêu cầu học sinh nói, viết một đoạn ngắn mà học sinh tâm đắc về một tác giả, một tác phẩm hay bất cứ vấn đề nào mà học sinh quan tâm, tuần thứ hai nói, viết hai đoạn rồi thứ thế tăng dần về độ dài. Ba là động viên khuyến khích những học sinh thiếu tự tin, ghi nhận những nỗ lực dù là nhỏ nhất của các em. Tâm lí chung ở học sinh là thích được thầy cô khen ngợi, đối với học sinh thiếu tự tin điều đó càng đúng hơn, vì thế khi các em có tiến bộ, có cố gắng dù là nhỏ nhất tôi cũng không tiếc lời khen ngợi, động viên, khích lệ học sinh trước lớp để các em thấy mình được quan tâm và tự tin hơn. 4
  5. Ví dụ: Khi giao yêu cầu cho học sinh nói, viết giáo viên cần hết sức nhẹ nhàng, cùng trao đổi với học sinh về chủ đề, bối cảnh và cho học sinh tự do chọn phương thức biểu đạt, khuyến khích học sinh nói, viết những điều mà học sinh có sở trường trước rồi mới đến nói, viết những vấn đề thuộc nội dung bài học, khen ngợi học sinh trước tập thể lớp để các em tự tin vào chính mình, không ngắt lời, không tỏ thái độ thờ ơ khi các em nói, viết. Thứ hai: Giáo viên khơi gợi sự tự tin ở học sinh Trước tiên giáo viên cần làm cho học sinh nhận thức được rằng các em hoàn toàn thực hiện được, bằng hệ thống câu hỏi vừa sức và tăng dần độ khó, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ: Nêu hiểu biết của em về nhà thơ Hữu Thỉnh ? Để trả lời được câu hỏi này không khó, chỉ cần đọc thông tin phần chú thích * sách giáo khoa Ngữ văn 9, các em sẽ trả lời được ngay, tuy nhiên đối với những học sinh thiếu tự tin thì việc trả lời được một cách rõ ràng, mạch lạc về câu hỏi này giúp các em tự tin vào bản thân để phát biểu những câu khác khó hơn. Thứ ba: Tạo cơ hội cho học sinh tương tác với nhau nhiều hơn Cha ông ta từ xưa đã có câu “ Học thầy không tày học bạn”, câu này cũng đúng với mục tiêu rèn luyện sự tự tin cho học sinh, giáo viên chỉ cần nêu những vấn đề, chủ đề học tập để học sinh cùng nhau thảo luận tìm ra cách giải quyết tốt nhất, vì đó là sản phẩm là kết quả của mình nên các em sẽ mạnh dạn và tự tin để trình bày. Ví dụ: Hãy nêu thực trạng môi trường ở địa phương em. Học sinh tự do chọn kiểu bài và hình thức trình bày miễn sao làm bật được vấn đề, dần dần các em sẽ tự tin để trình bày vì đó là kiến thức, sự hiểu biết, tìm tòi, khám phá của chính các em. Thứ tư: Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của học sinh Đó là nguyên tắc quan trọng trong giao tiếp cũng như trong dạy học hiện nay, khi giáo viên lắng nghe học sinh trả lời thì điều đó cũng trực tiếp rèn luyện sự tự tin ở học sinh, khi trình bày mà được người khác mà nhất là thầy cô chăm chú lắng nghe , xét về góc độ tâm lí các em sẽ tự tin vào bản thân mình, sẽ chủ động và tự tin phát biểu nhiều hơn. Ngoài ra còn phải dạy cho học sinh biết phản biện: Dựa vào những nghiên cứu gần đây, các nhà giáo dục đã hoàn toàn tin tưởng rằng trường học nên tập trung hơn vào việc dạy học sinh tư duy phản biện. Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động. Đó có 5